Cao Thị Hảo – Ngô Quốc Tuấn
Văn học viết về dân tộc và miền núi là khu vực có sự
hiện diện khá đông đủ bộ mặt văn học các dân tộc anh em trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam .
Với khả năng khơi sâu vào cái riêng, cái đặc sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng
miền, văn học dân tộc miền núi đã đem lại sự phong phú, đa dạng và có một vị
trí nhất định trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Trong văn học đương
đại có khá nhiều nhà văn tiêu biểu viết về đề tài miền núi đã để lại ấn tượng
sâu sắc trong lòng người đọc như: Ma Văn Kháng, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích
Thuý… Đoàn Hữu Nam
là một cái tên khá mới.
Ông có duyên với văn chương bắt đầu từ thơ, truyện
ngắn, nhưng thành công hơn cả là tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam phản
ánh khá phong phú hiện thực miền núi những năm sục sôi cách mạng giành chính
quyền và tiễu phỉ với nhiều biến cố lịch sử gắn liền với đời sống của cộng đồng
các dân tộc: Hmông, Dao, Giáy… ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, đặc biệt
là Lào Cai - mảnh đất đã gắn bó máu thịt trong quá trình sáng tác của ông.
Chúng ta có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Hữu
Trong các tiểu thuyết của mình, Đoàn Hữu Nam mô
tả khá phong phú những phong tục tập quán của người miền núi, đưa những truyền
thuyết dân gian vào tác phẩm để tô đậm thêm màu sắc dân tộc. Đặc biệt yếu tố kì
ảo được sử dụng rất thành công trong tác phẩm, góp phần quan trọng thể hiện rõ
ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam ,
nhiều tác giả cũng đã chú ý tới yếu tố kì ảo, lạ hoá này. Sương Nguyệt Minh đã
chỉ ra bối cảnh không gian “rừng rú” kì lạ trong tiểu thuyết Thổ
phỉ: “vừa âm u, hoang dã, cũ kĩ,
mòn mỏi, vừa lung linh, sáng rõ, đẹp huyễn hoặc…”[1,tr.15]. Đó là không
gian ma mị đặc thù phù hợp với thế giới của thổ phỉ. Có tác giả còn khẳng định:
“những yếu tố lạ hoá và kì ảo được vận
dụng trong Thổ phỉ tỏ ra rất thích
hợp để diễn tả một không gian miền núi huyền bí từ xa xưa vốn được xem là “ma
thiêng nước độc”[2]. Nhận xét về tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão,
Phạm Duy Nghĩa cũng cho rằng: “Lạ hoá
được Đoàn Hữu Nam sử dụng một cách có ý thức, không phải trực giác, ngẫu
nhiên”, “trong thế giới nghệ thuật của anh cái gì cũng lạ: thiên nhiên tạo vật
lạ… Hiện tượng sinh nở lạ… Bệnh tật lạ…”[3]. Tuy nhiên, đây mới chỉ là
những ý kiến nhận xét bước đầu, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống và lí giải cụ thể về vấn đề này.
Yếu tố kì ảo (fantasticque)
(một số tác giả còn gọi là “lạ hoá”) xuất hiện trong sáng tác văn chương như là
một thủ pháp nghệ thuật độc đáo, có tác dụng lớn trong việc kiến tạo thế giới
hình tượng của tác phẩm. Nó giúp nhà văn khai thác những tầng vỉa khác nhau của
hiện thực cuộc sống hay có thể phóng ngòi bút của mình vào những địa hạt có những
thời kì bị xem là “nhạy cảm” như tôn giáo, tính dục... nhằm tạo ra sức hấp dẫn, mê hoặc đối với độc
giả. Trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam , yếu tố kì ảo được sử dụng khá
phổ biến trong miêu tả nhân vật, miêu tả thiên nhiên, thế giới tâm linh.
Khi xây dựng nhân vật phản diện, nhà văn đặc biệt chú
ý miêu tả sự ra đời rất kì lạ của nhân vật. Sự có mặt của mỗi nhân vật trên cõi
đời này dường như đã dự báo trước về cá tính và số phận của họ. Đó là các nhân
vật: Chẩu Po, Triệu Tá Sắn trong Thổ phỉ hay Lù Tà trong tiểu thuyết Trên
đỉnh đèo giông bão…
Không giống như bao sinh linh khác đủ chín tháng mười
ngày thì chào đời, Chẩu Po (Thổ phỉ) đã gan lì đợi
đến lúc năm mới năm cũ giao nhau – khi mà những người thân đứng ngồi không yên
- mới chui ra từ bụng mẹ. Những đứa trẻ sơ sinh khác thì oe oe khóc khi chào đời,
ngược lại Chẩu Po vừa ra đời đã toét miệng cười, “nụ cười khinh mạn của đứa trẻ sinh ra một cách không bình thường, trong
ngày giờ không bình thường”[4]. Sự ra đời khác thường như vậy đã khiến cho
Chẩu Po khác hẳn với những đứa trẻ khác. Hắn có cái nanh nọc lõi đời của một
con thú tinh khôn.
Sự ra đời của Triệu Tá Sắn (Thổ phỉ) cũng thật kì dị:
“Ngày Sắn sắp chào đời thì mẹ Sắn vô tình
chui qua rừng ma. Hàng trăm con ma đói khát vây quanh đùa bỡn, một tốp thợ săn
phát hiện ra đưa về nhà châu đoàn thì bà đang ngấp nghé ở cửa ngục”[4,
tr29]. Để thoát khỏi địa ngục của ma quỷ, người mẹ ấy đã gắng gỏi với chút sức
tàn cuối cùng của mình lê thân đến vương quốc của hổ để gửi gắm lại đứa con cho
đời. Sắn đã được sinh ra “trong vương
quốc của hổ, được hổ cứu sống cho bú mớm nên pha trộn dòng máu của nó là dòng
máu hổ”[4,tr29]. Và chính dòng máu hổ đó đã khiến cho hắn mang bản năng của
loài mãnh thú, không chỉ quần hôn với sáu người đàn bà như “đàn hổ trong mùa giao phối” mà hắn còn “luôn thèm thịt sống, nhất là loài ăn thịt
hai chân biết nói, biết nghĩ” [4,tr30].
Yếu tố kì ảo có sức ám ảnh sâu đậm nhất trong người
đọc phải kể đến hiện tượng đầu thai của Lù Tà (Trên đỉnh đèo giông bão).
Sự ra đời của Lù Tà như một minh chứng của luật nhân quả. “Nó ở lỳ trong bụng mẹ chín, mười rồi ngoài mười tháng” và “đúng lúc
lưỡi tầm sét loằng ngoằng, sáng chói bập xuống cây chò chỉ đứng đầu bản thì mẹ
nó giật mình và bật ra nó”. Vừa ra đời, nó đã thấy thế giới này hết sức
quen thuộc. Rồi vừa biết nói nó đã “bi bô
kể cho mọi người chuyện người đẻ ra nó là ai ! Nhà nó ở đâu! Bố nó thế nào! Nó
đã phải giã từ kiếp trước ra sao!” [5]. Kiếp trước của hắn bắt đầu từ một
cuộc hôn nhân bất bình thường giữa một người đàn bà ngủ ngáy và ông chồng
nghiện rượu. Lão Vắn vì nghiện rượu đã vô tình giết chết đứa con vô tội để rồi
sống trong những ám ảnh ghê rợn, khi “đêm
đêm hồn của nó vẫn quẩn quanh. Nó có mặt khắp nơi, lúc chui sâu vào giấc ngủ
của lão, lúc chập chờn trong ánh nắng, lúc in hình trên bức tường loang lổ…”.
Rồi những đêm trăng suông “hình bóng
thằng con lúc ẩn lúc hiện, tiếng cười vô tư của nó cứ vỡ ra trong tiếng lật
phật của những tầu chuối rách tướp, trong tiếng gió u u luồn qua vách lưới đầu
hồi”… chờn vờn chờn vờn rồi mất hút khi “đám mây đen lướt tới, cái vực nở ra thành cái huyệt đen ngòm” [5,tr.133]. Đau khổ, ân hận khiến
cho người đàn ông khốn khổ đó đã dang rộng vòng tay đón Lù Tà về nuôi khi cha
mẹ nó bị chết trong một trận mưa bão với hi vọng chuộc lại lỗi lầm đã gây ra.
Sự dị kì về hình dáng của thằng Lù như mối nợ tiền kiếp cứ bám riết lấy cuộc
đời của lão Vắn. Tưởng rằng trời ban ơn mang đến cho lão thằng bé để chuộc lại
những lỗi lầm xa xưa khiến cả đời lão ân hận day dứt, nhưng oan nghiệt thay, Lù
Tà trở về từ kiếp trước để hành hạ người cha đã vô tình hại chết nó: “Thằng bé giống như con quỷ nhập tràng. Thân
nó ngắn chủn, nặng nề. Hai cẳng chân dài ngoẵng, gầy guộc như 2 cái tăm cắm vào
củ khoai. Hai cẳng tay đầy lông lá dài chấm hai đầu gối, hệt như tay vượn.
Khuôn mặt ngắn lông lá viền quanh minh chứng cho sự lại giống”[5,tr.134].
Đặc biệt là khuôn mặt nó – khuôn mặt bị lão quăng cái chày vào làm cho méo mó,
dị dạng - như một nỗi ám ảnh, day dứt, hành hạ lão cho tới tận lúc chết: “Hai cánh mũi trồi hếch lên như hai cái cửa
hầm. Ngược lại cái sống mũi tẹt lõm hẳn xuống như bị ai đó giáng vào đó một
chày”[5,tr.134].
Rõ ràng, việc sử dụng những chi tiết kì ảo để miêu tả
về sự ra đời một cách bất thường của những nhân vật phản diện giúp nhà văn lí
giải về những hành động vô nhân tính của nhân vật về sau. Những nhân vật này
giống như những quái thai lại giống của loài người, biến dạng từ phiên bản của
loài vật - loài mãnh thú đội lốt người. Chẩu Po là kẻ khát máu điên cuồng chống
phá cách mạng; Triệu Tá Sắn với tham vọng cuồng tín được làm vua cai trị cả một
vùng rừng núi; Lù Tà là tên tay sai giết người không ghê tay chỉ cần được thoả
mãn bản năng nhục dục. Chính yếu tố kì ảo đã cho người đọc cảm nhận khá sâu sắc
về kiểu nhân vật phản diện. Việc sử dụng chi tiết kì ảo để miêu tả nhân vật
phản diện là một lí giải có chủ đích của Đoàn Hữu Nam cho tính chất bản năng, hoang dã của nhân vật.
Yếu tố kì ảo có thể là những điều lạ lùng, huyền bí,
vừa chân thực, vừa hư huyễn mà một trong những đặc trưng của nó là sự tưởng
tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người đọc. Nhưng không thể
hiểu đơn giản, kì ảo chỉ là cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra, phi hiện thực
mà quan trọng hơn những cái đó phải tạo ra “hiệu ứng hoang mang” cho những
người đối diện với nó, tạo ra sự kinh ngạc, cảm nhận khác thường đối với người
tiếp nhận. Việc miêu tả sự ra đời của những tên thổ phỉ khát máu, giết người không
ghê tay như Lù Tà, Triệu Tá Sắn hay Chẩu Po đã đạt đến độ đó.
Addison cho rằng sáng tác theo xu hướng kì ảo là tạo
ra một loại khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả mãn trí
tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của
những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng
ta những câu chuyện mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi
khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một
cách tự nhiên [dẫn theo 6]. Giấc mơ từ thời thơ ấu của Lay là một minh chứng
như thế: “Lay thấy mình với Pò Quả, hai
xác chết, một già, một trẻ bị một đám người trong bản háo hức mổ thịt, chia
nhau. Hồn Lay theo tảng thịt về nhà một người nghiện rượu. Lão nghiện háo hức
bỏ tảng thịt vào nồi nước sôi, mắt lão tròn lên, tảng thịt đỏ lòm nổi như cái
phao, chạy xung quanh chảo đến rẽ nước. Lão vùng chạy, tảng thịt cũng nhảy ra
khỏi chảo về nhà đập cửa gọi mẹ” [4, tr.167]. Trong miền kí ức sâu thẳm của
Lay, những hình ảnh của tộc người Giáy với tục lệ chia thịt người chết từ thuở
hồng hoang vẫn còn ám ảnh day dứt, nặng nề.
Không chỉ dừng ở đó, trong thế giới tâm linh, yếu tố
kì ảo vẫn được nhà văn sử dụng khá phổ biến. Hình ảnh tờ giấy đe dọa của kẻ
giết người gửi cho nhà họ Sần (Thổ phỉ) cháy rồi mà “tàn than còn nguyên hình dạng của nó bốc
lên, xoáy tít, rồi đậu trùm lên bát nhang thờ tổ tiên trên bàn thờ, trông như
một con bướm màu đen” [5, tr.7] như một tín hiệu dự báo về những điều chết
chóc đen tối đang đến với dòng họ Sần. Hay những nén hương thắp cho linh hồn
oan uổng của Sần Quang trước cái chết “bất đắc kì tử” không bắt lửa nhưng sau
lời khấn cầu của ông Sần Đạt đã “bén lửa
cháy đùng đùng, ông phải vẩy mấy lần, những ngọn lửa mới chịu thu mình vào
trong những tàn than đỏ như màu máu” [5, tr.8]. Ngay cả hành động bất tỉnh
nhân sự của Sần Đạt trước cái chết của thằng con trai cũng thật kì quái, hồn
vía được miêu tả có hình có ảnh: “lơ lửng
giữa chín tầng mây”, “bao quát vạn
vật một cách nuối tiếc, rồi lặng lẽ chui vào cái hộp sọ đầy hang hốc”… Tất
cả những hình ảnh, những hiện tượng đó đã tạo lên một màu sắc huyền bí, một sức
mạnh vô hình trong thế giới tâm linh của con người miền núi.
Yếu tố kì ảo không chỉ có hiệu quả cao khi xây dựng hình
tượng nhân vật mà còn được tác giả sử dụng thành công trong việc tạo ra một lớp
màn linh thiêng bao trùm toàn bộ không gian trong tác phẩm, tạo nên một màu sắc
riêng cho những tiểu thuyết viết về dân tộc và miền núi của nhà văn họ Đoàn. Nó
phảng phất trong hình sông thế núi của những địa danh miền núi nơi đồng bào dân tộc thiểu số quần tụ. Suối Hoa
được coi là vùng đất “địa lợi”- nơi hội tụ của khí thiêng trời đất. “Ở nơi này, trời đất đóng kín bằng vòng vây
núi non, song lại mở ra cho nó một tiểu vũ trụ, một sự cân bằng như sắp đặt”…Màu đất ở Suối
Hoa cũng không giống những nơi khác mà “vàng
tươi như ai đó lấy đỗ xanh xát vỏ, đồ thành xôi rồi rải ra khắp đồi khắp ruộng”.
Rồi “Những phiến đá đen nhẵn lỳ như đá
mài, được giời đất xếp chồng lên nhau, tạo thành những cái tháp kì vĩ, huyền
bí.. hội tụ đủ cả âm dương ngũ hành” [5, tr.11]. Ngay cả nguồn nước người
dân Phòng Tô dùng để cúng trời đất tổ tiên cũng là nước thiêng được lấy từ “mỏ nước tận trên thượng nguồn, nơi ngọn núi
chúa vồng ra như bộ ngực. Từ bộ ngực ấy hai dòng nước một nóng, một lạnh ngày
đêm tuôn ra như hai dòng sữa. Nơi hai dòng sữa hợp nhau chính là mỏ nước thiêng
của cả vùng” [5, tr.119,120].
Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên, đất trời cũng được tác
giả miêu tả với nhiều yếu tố kì ảo, khác lạ. Trong ngày lễ lên ngôi của vua Dao
- Triệu Tá Sắn, sau khi hắn khấn xong thì: “Bầu
trời vần vũ, từng đám mây đen ùn ùn kéo tới, phút chốc mặt trời chìm nghỉm
trong cái ô mang màu chết chóc. Dưới đất rừng núi lặng phắc như trước đám tang,
lam sơn chướng khí bốc lên ngùn ngụt khiến từng đàn chim lao ra khỏi tổ kêu inh
ỏi, từng đàn khỉ, vượn lao ra khỏi hang ngửa mặt lên trời hú hét”[4,tr.48].
Hiện tượng này như dự báo trước một hiểm hoạ bất thường sắp xảy ra. Đặc biệt là
chi tiết tái hiện cảnh làm lễ lên ngôi: “Mở
đầu của lễ, chậu nước rửa tay của thầy, của người thụ lễ biến thành chậu máu.
Vào lễ, con gà sống sau khi cắt tiết đầu một nơi, thân một nẻo vẫn bay loạn xạ
quanh hang” [4, tr.49]; Khi mổ bụng con dê làm lễ “quả mật to như quả gấc dính với lá gan, lá lách lằng nhằng”
[4,tr.58]…. Những chi tiết bất thường, lạ hoá này như là lời dự báo cho một
tương lai đầy chết chóc đang đón đợi nhân vật ở phía trước.
Hiện tượng mưa, gió cũng được miêu tả lạ lùng, kì quái
như: “trong một đêm mưa gió, lưỡi tầm sét
bất ngờ chụp xuống thiêu rụi cả nhà cửa, cây cối. Trong trận giời vật ấy, chín
con người cùng của cải gom góp bao nhiêu năm của bẩy nhà trong xóm bị biến
thành than” [5, tr.6]. Trong đám tang của Sần Quang, mưa gió thật rùng rợn,
kinh dị: “phía núi Rồng nghe một tiếng ục
âm âm, rồi tiếp theo là tiếng nước đổ, tiếng đá lở, cây gẫy át cả tiếng sấm
chớp, mưa gió. Tiếng khóc hờn căm tức tưởi hoà với tiếng thét của trời đất đã
kéo theo cả loạt tiếng khóc tiếp theo như dây chuyền, khiến cho ai cũng có cảm
tưởng như mình đang cùng trời đất xả hết nỗi thống khổ với thế gian” [5,
tr.18]. Sự đồng cảm của đất trời trước nỗi đau của lòng người hay sự hận thù
của dòng họ Sần trước tai vạ mà dòng họ Hồ reo rắc đã tạo nên sự cộng cảm giữa
con người và thiên nhiên ? Mưa gió như điềm báo về sự bất bình của lòng trời và
lòng người vậy !
Chi tiết về đàn kiến dưới sự nổi giận của vua kiến đã
tạo ra hai cuộc thảm sát khiến người đọc không thể xác định được các sự kiện
đang diễn ra trong thế giới thực hay trong phạm vi cái siêu nhiên. Nó mang đậm
chất quái dị và ghê rợn. Đoàn Hữu Nam đã miêu tả sinh động, chi tiết
cái kết cục thảm khốc của cuộc tương tàn hổ - kiến trong tác phẩm của mình: “Sau một buổi đàn hổ không còn, những con vật
biết cựa quậy không còn, rừng núi rã rời, tan hoang để rồi mãi mãi trở thành
vùng đất chết” [5, tr.69]. Cuộc nổi giận của vua kiến khi con người chiến
tranh với nhau dẫn đến thảm cảnh: “Xác
kiến, xác người, xác động vật, cây cối, phân gio bốc lên khét lẹt, gây như
nướng cả rừng người. Cả hai bản bị xoá sổ từ vết máu đến ống xương mà vẫn chưa
thoả mãn những hàm răng đói khát của những đàn kiến” [5, tr70].
Trong Thổ phỉ chúng ta có thể bắt gặp rất
nhiều những chi tiết kì ảo như vậy: suối đổi màu, mặt trời nhuộm máu… thể hiện
trí tưởng tượng phong phú của nhà văn tạo nên những mảng màu khá đặc sắc là
điểm nhấn đậm tính rùng rợn, ma mị đối với độc giả khi tiếp cận.
Một nhà nghiên cứu đã có lý khi cho rằng “cái làm nên nét riêng cho cuốn sách của Đoàn
Hữu Nam, trong cái mênh mông của văn xuôi miền núi, cách mạng xưa nay, là anh
đã chủ ý làm lạ hoá thế giới nghệ thuật của mình bằng những chi tiết, hình ảnh
kì lạ, có lúc hoang đường” [3]. Rõ ràng, so với những sáng tác của Tô Hoài
(với Vợ
chồng A Phủ), Nguyên Ngọc (với Đất nước đứng lên, Rừng xà nu) hay
Ma Văn Kháng (với Đồng bạc trắng hoa xoè)… cùng viết về hiện thực đấu tranh chống
lại những thế lực phản cách mạng của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi thì tiểu
thuyết của Đoàn Hữu Nam có điểm mới. Việc sử dụng yếu tố kì ảo đã mở ra những
không gian nghệ thuật huyền ảo, những hình tượng nghệ thuật sinh động, hấp dẫn
đưa bạn đọc tiếp cận với thế giới bí ẩn, linh thiêng thậm chí ma quái, đầy
hoang tưởng vốn khá xa lạ đối với văn học viết về miền núi cách mạng trước đây.
Đây có thể coi là điều làm nên nét mới mẻ và độc đáo của nhà văn Lào Cai này
đồng thời cũng là đóng góp riêng của tác giả Đoàn Hữu Nam cho văn học viết về
dân tộc và miền núi đương đại.
Tài liệu
tham khảo
[1].Sương
Nguyệt Minh, Thế giới nghệ thuật Đoàn Hữu
Nam trong tiểu thuyết Thổ phỉ (thay lời tựa), trong cuốn
“Thổ phỉ” (Đoàn Hữu Nam ),
Nxb Hội Nhà văn, 2010.
[2].
Phạm Duy Nghĩa, Đọc “Trên
đỉnh đèo giông bão” của Đoàn Hữu Nam , Tạp chí Văn hoá các dân tộc,
2006
[3].
Phạm Duy Nghĩa, Làm mới một đề tài (Đọc
tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn Đoàn
Hữu Nam, Nxb Hội nhà văn, 2010- Giải A Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu
số Việt Nam 2010 ) Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, 2012.
[4].
Đoàn Hữu Nam ,
Thổ phỉ, Nxb Hội Nhà văn, 2010.
[5].
Đoàn Hữu Nam ,
Trên đỉnh đèo giông bão (tái bản),
Nxb Lao động, 2010.
[6].
Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và
văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8,
2006.
TÓM TẮT
Đoàn Hữu Nam là một trong
những tác giả có đóng góp cho văn học viết về dân tộc và miền núi đương đại.
Ông nổi tiếng với những tiểu thuyết: Thổ phỉ,
Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão… Trong tiểu thuyết của ông,
yếu tố kì ảo được sử dụng khá phổ biến nhằm thể hiện thế giới nghệ thuật mới
mẻ, độc đáo. Việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam đã
mở ra những không gian nghệ thuật mới, hình tượng nghệ thuật sinh động, hấp
dẫn, thế giới tâm linh bí ẩn. Đây có thể coi là đóng góp riêng của nhà văn Lào Cai
này cho văn học viết về dân tộc và miền núi.
SUMMARY
Doan Huu Nam is one of
the authors contributed to the written literature on mountainous and ethnic literature
areas. He is known for novels: Tho phi, Tinh rung, Tren đinh đeo giong bao… In his novels, period factors used quite popular virtual
world to show new art, unique. The use of virtual term in the novel elements of
Doan Huu Nam
has opened a new art space, vivid art image, attractive, mysterious spiritual
world, ghost. This can be considered as writer's own contribution to Lao Cai
for literature written in ethnic minority and mountainous areas.
Keywords: Novel
Doan Huu Nam ; prose
writing about ethnic
and mountainous.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét